Bình thơ bài Hành Phương Nam của Nguyễn Bính

Bình thơ bài Hành Phương Nam của Nguyễn Bính

Bình thơ bài Hành Phương Nam của Nguyễn Bính

Email In PDF.
Chỉ mục bài viết
Bình thơ bài Hành Phương Nam của Nguyễn Bính
trang 01
trang 02
Tất cả các trang

Trong cuốn "Lá thư Làng Mai" số 32, chúng ta đã bình bài thơ Giây Phút Chạnh Lòng của Thế Lữ, bài có chủ đề là ra đi. Vì lý tưởng, vì chí hướng, sự nghiệp mà người con trai đành phải từ giã người mình yêu để lên đường. Rồi sau đó, vào một ngày cuối năm, trong khi mọi người đang chuẩn bị đón giao thừa, ngồi một mình trên căn gác trọ người con trai cảm thấy cô đơn và chợt chạnh lòng nhớ lại người xưa, nhưng anh cũng biết rằng mình không thể nào ở lại được, mình phải tiếp tục con đường, phải tiếp tục theo đuổi sự nghiệp của mình thôi. Người ở nhà nếu quả thực là hiểu được người mình yêu thì phải yểm trợ cho người ấy, để cho người ấy đi dù rằng đó là một quyết định rất khó khăn, dù trong lòng mình có xót xa, tiếc nuối.

Người con trai ấy có hoài bão, có chí hướng mà mình giữ chặt người ấy cho riêng mình thì người ấy sẽ không có hạnh phúc. Người ấy có một năng lượng mà mình đem nhốt năng lượng đó lại thì chỉ làm khổ người yêu và làm khổ chính mình thôi. Một làn hương, một tia nắng mà mình còn không giữ được, huống nữa là giữ một người con trai có chí nguyện lớn ?

Ngày xưa Yasodhara cũng có tâm trạng như vậy. Yasodhara biết rằng Siddhata không thể không ra đi. Yasodhara cũng chỉ là một người phụ nữ thường tình, nhưng cô biết là phải để cho chồng ra đi, bởi nếu vì mình mà người con trai không ra đi được thì người con trai đó đâu còn là người con trai của mình ? Tuy thân người ấy bên mình nhưng tâm người ấy không còn ở bên mình nữa. Có giữ thì cũng không còn. Và Yasodhara cũng hiểu rằng dùng tất cả mọi cách để trói buộc người con trai đều vô hiệu nghiệm.

Hồi 1940 cho tới 1945 phần lớn những người con trai Việt Nam đều muốn ra đi, tôi lớn lên trong giai đoạn đó và tôi đã chứng kiến được những cuộc ra đi. Hồi ấy người Pháp đang đô hộ Việt Nam, đất nước ta đang lầm than trong cảnh nô lệ, người dân đói khát, khổ đau. Năm tôi khoảng 14, 15 tuổi có những buổi sáng thức dậy, tôi thấy ngoài đường có những chiếc xe cam nhông chở đầy những xác chết của những người đói. Và tôi cũng thấy những anh, những chị, chỉ khoảng 20, 22 tuổi bị bắt, họ bị người ta trói lại, giải đi, trông cảnh đó tôi rất sót thương. Lúc ấy tôi không biết họ đã làm gì để bị bắt như vậy? Nhưng tôi biết rằng trong trái tim họ đã ôm ấp một lý tưởng gì đó nên mới bị lâm vào vòng tù tội. Mới 14 tuổi tôi đã được đọc sách báo cách mạng và tôi cũng muốn ra đi. Năm 1940, Thâm Tâm có viết một bài thơ rất nổi tiếng đó là bài Tống Biệt Hành:

Đưa người ta không đưa qua sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?


Phải đưa qua sông thì mới thấy có sóng và thấy sóng ở bên ngoài thì sóng ở trong lòng mới nổi dậy. Nhưng ở đây mình đâu có đưa sang sông "sao có tiếng sóng ở trong lòng?" Tình trạng đất nước, xã hội, và những khổ đau đã thúc đẩy những người con trai, những người con gái lên đường. Là một người thanh niên trong hoàn cảnh ấy thì phải nên làm một cái gì đó cho đất nước. Tác giả cũng muốn đi nhưng chưa đi được, mà phải ở lại. Và khi những người bạn của mình, những người anh, người chị, người em của mình ra đi thì mình phải đưa tiễn. Đưa tiễn mà trong lòng không yên, những đợt sóng cứ chồm lên không ngớt.

Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?


Tuy đang là mùa hè, đất trời đang xanh tươi, cây cối chưa vàng vọt nhưng sao nhìn vào mắt của người kia mình thấy có hoàng hôn, có một nỗi buồn nào đó.

Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng.


Gia đình có mẹ, có chị, có em, lúc từ giã người đi phải làm bộ dửng dưng, nếu không thì không thể cất bước được.

Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ.
Chí lớn chưa về bàn tay không,

Ly khách là người đi. Nếu đã ôm một chí nguyện to lớn thì không thể nào về với hai bàn tay không được.

Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.


Khi ra đi mình đã mang một chí nguyện nào đó và nếu không đạt được chí nguyện ấy thì mình sẽ nhất định không trở về. Có một hình ảnh mà tất cả thanh niên Việt Nam thời đó đều tôn thờ đó là hình ảnh của Kinh Kha. Kinh Kha sống ở thời Chiến Quốc, cuối đời Xuân Thu, vào thế kỷ thứ 5 cho đến thế kỷ 13 trước Tây lịch, khi ấy có bảy nước đang tranh chấp nhau. Có hai người anh hùng, một người tên Nhiếp Chính, một người tên là Kinh Kha. Nhiếp Chính là một người anh hùng ẩn thân đời Chiến Quốc đi giết tướng quốc của nước Hàn là Hiệp Lũy, rồi rạch nát mặt, tự vẫn chết để không ai tìm được tung tích. Kinh Kha là người nhận trách nhiệm đi ám sát Tần Thủy Hoàng, ngày Kinh Kha lên đường Thái tử Yên Đan tổ chức lễ tiễn đưa rất lớn vì biết rằng người này đi sẽ không bao giờ trở lại. Tại vì Kinh Kha đã lãnh một sứ mạng rất lớn, đó là phải giết cho được Tần Thủy Hoàng, giết cho được tên bạo chúa. Câu thơ ca ngợi hình ảnh đó người thanh niên Việt Nam thời bấy giờ người nào cũng thuộc:

Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn
Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn


Nghĩa là gió thổi rờn rợn, nước sông Dịch lành lạnh và người tráng sĩ một phen đi thì không bao giờ trở lại. Bây giờ, trong bối cảnh phải đưa tiễn người bạn ra đi cũng vậy, cũng nghĩ tới Kinh Kha. Trước năm 1940 các thi sĩ sáng tác toàn thơ tình, cứ yêu qua yêu lại rồi đau khổ, rồi sầu thương. Nhưng bắt đầu từ năm 1939-1940 có sự thức tỉnh trong giới thanh niên, tỉnh dậy trước thực tại cay đắng, khổ đau đen tối của đất nước, của xã hội. Do đó họ không còn làm những bài thơ theo lối khóc gió thương mây nữa. Bài này là một trong những bài đánh dấu giai đoạn thức tỉnh của người thanh niên Việt Nam thời chống Pháp.

Ta biết ngươi buồn chiều hôm trước,
Bây giờ mùa hạ, sen nở nốt,
Một chị, hai chị cũng như sen,
Khuyên nốt em trai dòng lệ xót.
Ta biết ngươi buồn sáng hôm nay
Trời chưa mùa thu, tươi lắm thay,
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Vo tròn thương tiếc chiếc khăn tay…


Buồn chứ sao không buồn, bỏ mẹ, bỏ các em ở lại để ra đi trong khi chưa biết rõ con đường phía trước như thế nào. Không biết mình sẽ làm cái gì? Chỉ biết là mình muốn đi thôi, con đường trước mặt là cả một khu rừng chưa khai phá. Rất là mờ ảo. Con đường cách mạng xã hội của một dân tộc, chưa có cái gì rõ ràng, chưa có gì được chuẩn bị, sắp đặt cả. Người ra đi mang tâm trạng hoang mang, nhớ nhung, luyến tiếc nhưng cố giả vờ dửng dưng "Một giã gia đình, một dửng dưng".

Người đi? Ừ nhỉ! Người đi thực!

Không phải chuyện chơi.

Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu cay.


Đi là phải như vậy, thương mẹ bao nhiêu cũng phải đi, thương em bao nhiêu cũng phải đi tại vì chí hướng của người thanh niên là phải lên đường. Sống trong thời đại của mình, mình là một chàng trai, mình là một cô gái, thì mình đại diện cho cả một thế hệ của mình. Mình không đi với tư cách một cá nhân, mình đi với tư cách của cả một thế hệ. Mình thấy tất cả những người đó trong mình, mình không phải đi đơn độc.

Nguyễn Bính cũng ra đi nhưng trước khi giật mình tỉnh thức thì Nguyễn Bính đã nghiện rượu, đã ghiện thuốc phiện. Thời đó thanh niên Hà Nội cũng ăn chơi, cũng lao vào cuộc sống của sự hưởng thụ. Bài Hành Phương Nam của Nguyễn Bính làm vào khoảng năm 1946-1947.

Hai ta lưu lạc phương Nam này
Hai đứa đi vào Nam
Trải mấy mùa qua én nhạn bay
Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
Riêng ta với ngươi buồn vậy thay!


Hai đứa không nhà, không cửa, đi tìm con đường, tìm chí hướng nhưng mà tìm chưa ra, cũng không biết tìm ở đâu nữa, hai đứa cứ làng thang với nhau trong cảnh cô đơn không nhà. Tội nghiệp ghê.

Lòng nắng xá gì đôi hớp rượu
Mà không uống cạn mà không say!


Đã nghiện rượu rồi, đâu có thể không uống được, vì vậy có đồng nào là đem ra uống rượu hết đồng đó. Muốn ra đi lắm nhưng vốn liếng của mình còn nghèo nàn quá, đã vướng vào rượu, vào ma túy rồi thì ‎ ý chí còn được bao nhiêu?

Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã
Mà áo khinh cừu không ai may!


Tư Mã Tương Như là một chàng nhạc sĩ đánh đàn cho Trác Văn Quân nghe, khúc đàn đó là Tư Mã Phượng Cầu. Phượng Cầu Hoàng là con chim Phượng đi tìm con chim Hoàng tức là khúc hát của tình yêu. Còn thi sĩ nhà ta thì chẳng có ai may cho một chiếc áo để có thể ra trận.

Ngươi giam chí lớn vòng cơm áo
Ta trói thân vào nợ nước mây


Vấn đề cơm áo là vấn đề rất lớn. Nợ nước mây là nói về sự nghiệp của người con trai.

Ai biết thương nhau từ thuở trước
Bây giờ gặp nhau trong phút giây
Nợ tình chưa trả tròn một món
Sòng đời thua đến trắng hai tay

Tất cả những cố gắng của mình từ trước đến nay đều thất bại hết. Tình yêu thì không xong mà chí hướng cũng chẳng thành. Quê nhà thì ở mãi Hà nội còn mình đang lưu lạc tận miền Nam.

Tâm giao mấy kẻ thì phương Bắc
Phân tán vì cơn gió bụi này
Người ơi! Buồn lắm mà không khóc
Mà vẫn cười qua chén rượu đầy
Vẫn dám tiêu hoang cho đến hết
Ngày mai ra sao rồi sẽ hay


Trong lòng mình có mang một sứ mệnh lớn muốn ra đi nhưng những tập khí cũ, những thói quen xấu nghiện ngập, yếu đuối cứ trói buộc lấy mình. Nguyễn Bính cũng có nhắc tới Kinh Kha, cũng nhắc tới Nhiếp Chính.

Ngày mai sáng lạn mầu non nước
Cốt nhất làm sao từ buổi này


Đây là một sự giác ngộ, thi sĩ thấy rằng ngày mai có tươi sáng hay không là do ngày hôm nay quyết định. Nhưng ngày hôm nay như thế nào? Hoàn cảnh của mình, tâm trạng của mình ra sao, và vốn liếng thì đến đâu rồi?

Ngày mai sáng lạn mầu non nước
Cốt nhất làm sao từ buổi này
Rẫy ruồng châu ngọc, thù son phấn
Mặt đỏ lên rồi, cứ chết ngay
Hỡi ơi! Nhiếp Chính mà băm mặt
Giữa chợ ai người khóc nhận thây?
Kinh Kha quán lạnh sầu nghiêng chén
Ai kẻ dâng vàng, ai biếu tay?

Trước khi lên đường Kinh Kha được Thái tử Yên Đan hậu đãi, có một cô thị nữ mang khay trà vào, Kinh Kha khen hai bàn tay của cô đẹp quá. Thái tử Đan nghe báo cáo như vậy thì nói với cô thị nữ: cô tặng cho tráng sĩ hai bàn tay đi. Rồi sai chặt hai bàn tay cô thị nữ để trên khay rồi mang vào tặng cho Kinh Kha. Thái Tử đã hy sinh một mạng người để nung nấu chí hướng của người tráng sĩ. Tráng sĩ nói ưa hai bàn tay đó thì chúng tôi dâng tặng cho tráng sĩ hai bàn tay. Ngày Kinh Kha lên đường, đi qua sông Dịch, ba ngàn người mặc đồ tang đến đưa tiễn.

Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự
Hài cỏ, gươm cùn, ta đi đây


Đôi giày của mình là giày cỏ, gươm của mình là gươm cùn nhưng người tráng sĩ Nguyễn Bính vẫn không biết đi về đâu?

Ta đi nhưng biết về đâu chứ?
Đã dấy phong yên khắp bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi!


Muốn đi mà không biết đi về đâu! Thôi, nếu không đi thì ở lại uống cho say. Nguyễn Bính có tâm trạng như vậy nhưng rốt cuộc vẫn đi vào chiến khu, phục vụ trong Ủy ban Việt Minh tỉnh bộ tỉnh Rạch Giá và đi vào rừng U Minh phục vụ kháng chiến trong vòng chín năm trời cho đến khi tập kết ra Bắc. Trong thời gian đó Nguyễn Bính cưới một người vợ người miền Nam. Tôi đọc thơ thì thấy rằng thơ kháng chiến, thơ cách mạng của Nguyễn Bính không hay lắm, thơ Nguyễn Bính không hợp với thơ kháng chiến.

Số thanh niên có lý tưởng cách mạng, có lý tưởng kháng chiến ra đi rất là đông nhưng có hàng ngàn người, hằng chục ngàn người, hằng trăm ngàn người đã ngã gục. Không phải giữa súng đạn mà ngã gục trong tổ chức gọi là cách mạng. Điều này không phải chỉ đúng ở Việt Nam mà đúng cho hết tất cả các nước. Trong cuộc cách mạng có sự thủ tiêu lẫn nhau.

Khi ra đi mình mang một lý tưởng rất cao đẹp nhưng khi đã đi vào trong tổ chức, dù là tổ chức cách mạng, thì mình cũng thấy được sự lạm quyền, sự lợi dụng, thói đạo đức giả... Trong hoàn cảnh ấy nỗi khổ, niềm đau của người trẻ rất lớn, muốn lùi lại thì không được mà muốn tiến tới cũng chẳng xong, đi tới đây thì không còn phương hướng nữa. Đi tu cũng vậy, ban đầu mình nghĩ rằng trong tổ chức giáo hội có sự thánh thiện, có hào quang, có sự tốt đẹp nhưng khi đi vào trong tổ chức giáo hội mình cũng có thể thấy được những hư hỏng những tham vọng, những danh lợi, những giả dối, và người xuất gia cũng có thể ngã gục trên bước đường tu của mình.

Quý vị có thể đặt câu hỏi là tại sao tôi không đi vào đảng mà lại đi vào chùa? Đó là câu hỏi rất là hay. Chắc chắn phải có một hạt giống nào đó, phải có một nguyên do nào đó khiến một người thay vì đi vào một đảng chính trị thì lại đi vào một ngôi chùa. Muốn tìm hiểu được điều này thì phải đi vào trong đời sống của dân tộc mình, tại vì mình có tổ tiên huyết thống nhưng cũng có cả tổ tiên tâm linh và người thanh niên nào cũng có ít nhiều chí hướng cả.

Thái tử Siddhatta cũng có thể đi vào con đường chính trị nhưng Siddhatta đã chọn con đường tâm linh. Trong khi vua Tịnh Phạn rất muốn Siddhatta đi vào con đường chính trị, ông đã đặt hết hy vọng của mình vào Siddhatta nhưng Siddhatta khước từ con đường đó và đi kiếm một lối đi khác. Mình là những người con trai, những người con gái đã không đi làm chính trị mà đi tu là vì mình cũng có cái gì đó giống như Siddhatta. Mình thấy đây cũng là con đường phụng sự, mình hợp với con đường này hơn và mình thấy con đường này đem lại cho mình nhiều sự an tâm, nhiều năng lượng hơn.



Thanh Nien Online | Nguyễn Bính hành phương Nam - Bài 4: Lưu lạc ai ngờ lại gặp nhau

Thanh Nien Online | Nguyễn Bính hành phương Nam - Bài 4: Lưu lạc ai ngờ lại gặp nhau
Nguyễn Bính hành phương Nam - Bài 4: Lưu lạc ai ngờ lại gặp nhau
11/03/2010 0:02
Kiên Giang thời trai trẻ... - ảnh: Tư liệu
Đã hơn 60 năm nhưng những ấn tượng về Nguyễn Bính và buổi gặp gỡ đầu tiên ấy vẫn không phai trong trí nhớ của nhà thơ lão thành Kiên Giang.

Nhà thơ Kiên Giang - Hà Huy Hà là một trong rất ít văn nghệ sĩ ở phía Nam có duyên gặp gỡ và cận kề với “nhà thơ chân quê” Nguyễn Bính trong một thời gian khá dài.

Lưu lạc về Rạch Giá

Số là vào khoảng năm 1946, cậu học trò Trương Khương Trinh đang học bậc trung học ở Rạch Giá (ông sinh năm 1929 tại Xẻo Đước, làng Đông Yên, huyện An Biên, do nạn cướp lộng hành nên phải tản cư về Rạch Giá). Một hôm có người bạn học tên Nguyễn Phi Long khoe: “Nhà thơ Nguyễn Bính đang ở xóm biển, sau đình Nguyễn Trung Trực”. Vốn mê thơ văn, mà Nguyễn Bính lại là thần tượng của mình nên Trương Khương Trinh (sau đây xin gọi là Kiên Giang dù lúc đó ông chưa lấy nghệ danh này) quyết đi tìm.

Đến xóm biển, người ta chỉ cậu đến nhà ông quản thủ địa bộ tên N.Đ.L (ông này vốn người gốc miền Bắc, thấy “đồng hương” lưu lạc đến tận cái xứ chót biển phương Nam này nên đón về, cho ở nhờ). Hỏi người nhà ông Lý thì họ bảo: “Ông Bắc Kỳ đang ngủ ngoài đình”. Kiên Giang ra đình thờ Nguyễn Trung Trực (sau này mới nâng cấp thành đền thờ), lúc ấy đã hơn 9 giờ sáng mà thấy cảnh vật vắng hoe. Ông hỏi thăm một bà hàng nước xem có người nào dáng vẻ nho nhã như mình đã mường tượng không. Bà hàng nước chép miệng bảo: “Chẳng thấy nhà thơ nhà thẩn nào cả, chỉ có một anh hàn sĩ giống hệt “Trần Minh khố chuối” ngày nào, lật nóp nằm ngủ sau cửa đình. Chắc là ổng muốn xin Ngài báo mộng chi đó?”.

Lúc này Kiên Giang mới nhìn kỹ, thấy một người vẫn còn nằm ngủ trong chiếc nóp. Đi quanh chiếc nóp một lúc, Kiên Giang đánh bạo đập dậy: “Ông ơi, tui nghe nói ông vừa tới đây, tui cũng là người làm thơ. Xin chào mừng ông!”. Dụi mắt nhìn cậu học trò thiếu niên, câu đầu tiên của nhà thơ là “Có thuốc không?”. Thời may, Kiên Giang cũng mới tập tành hút thuốc. Trong túi có bao Cotab còn sót lại hai điếu. Sau khi hút hết cả hai điếu thuốc, Nguyễn Bính xé vỏ bao thuốc lá và ghi liền vào đó 4 câu thơ tặng người bạn mới: “Có những dòng sông chảy rất mau/Nhớ chi nghĩa bến với duyên cầu/Lá vàng hoa đỏ trôi không kịp/Lưu lạc ai ngờ lại gặp nhau”.

Sau khi Nguyễn Bính cuốn chiếc nóp để vào một góc đình. Kiên Giang mới kịp ngắm trang phục của nhà thơ: quần soóc, chiếc áo sơ mi đã cũ, vạt sau dài hơn vạt trước. Nhà thơ đi xuống mé sông rửa mặt rồi kéo vạt áo sau lên lau. Kiên Giang thỏ thẻ mời nhà thơ đi thưởng thức cà phê Quảng Phát - ngay chợ Rạch Giá, gần tiệm thuốc tây Nguyễn Khoa Dai. Khi Kiên Giang hỏi sao nhà thơ không ở nhà ông Ng.Đ.L nữa? Nguyễn Bính cười buồn bảo rằng tại bà vợ ông này đẹp quá, mái tóc xõa dài cứ nằm trên võng ngâm thơ... Nguyễn Bính! Ông chồng phát ghen, có cử chỉ sao đó nên Nguyễn Bính buồn, bỏ ra ngoài đình ngủ. Kiên Giang sực nhớ cách đó không xa có căn nhà bỏ trống của một người coi giữ sân banh (sân bóng đá), nên đã cùng Nguyễn Bính đi tìm người này điều đình để nhà thơ có chỗ trú thân.

Mộc Kiều Trang và 2 tâm hồn thơ

...và bây giờ

Vậy là căn nhà bỏ hoang đã lâu ngày nay được hai thầy trò ra sức sửa sang lại cho có vẻ tươm tất. Trước nhà có con mương nhỏ với chiếc cầu gỗ bắc vào khoảng sân đóng đầy rêu, Nguyễn Bính đặt tên “giang sơn” của mình là “Mộc Kiều Trang”. Ở trong nhà có một bộ ngựa - sau này vừa là chỗ ngủ, vừa là bàn viết và cũng là bàn nhậu của hai hồn thơ. Sau nhà có một chái bếp, cỏ ô rô, cóc kèn mọc chen vào kẽ vách, Kiên Giang tính dọn sạch cỏ nhưng Nguyễn Bính cản: “Để vậy cho... hoang dã!”.

Dạo đó, bà mẹ của Kiên Giang làm nghề bán mắm cá đồng trong nhà lồng chợ Rạch Giá. Bà không thể ngờ rằng cậu quý tử vẫn rình mỗi lần bà rời khỏi quầy là thọc tay vào “thó” mấy đồng để mua thức ăn, gạo thì xúc ở nhà để “tiếp tế” cho ông thầy. Nguyễn Bính không biết ăn mắm như dân Nam Bộ, nhưng rượu đế thì uống tì tì ! Khi chỗ ở đã tạm ổn định, Nguyễn Bính viết mấy câu thơ dán trước cửa: “Từ dạo về đây sống rất nghèo/Bạn bè chỉ có gió trăng theo/Những phường phú quý xin đừng đến/Hãy để thầm ta xanh sắc rêu”. Chữ Nguyễn Bính rất đẹp, ông thường chép lại những bài thơ cũ của mình dán đầy lên vách: “Ở đây ngày lại qua ngày/Nhà không mở cửa mưa đầy tuần trăng”, hoặc bài Những người của ngày mai: “Quê các anh ở miền Bắc xa xôi/Bước chân đi đã biết mấy năm rồi/Xa chiếc cầu ao, xa mái rạ/Cô gái làng gội tóc nước hương nhu... Quê anh ở miền Trung bát ngát/Bãi cát vàng bờ biển uốn quanh co...”. Dưới mái Mộc Kiều Trang chỉ có hai thầy trò nhưng mỗi bữa ăn thường kéo dài hai, ba tiếng. Vừa ăn vừa đàm đạo chuyện văn chương, chuyện kháng chiến...

Bài thơ Tiền và lá của Kiên Giang cũng được sáng tác trong dịp này (cho nên văn phong cũng bị ảnh hưởng Nguyễn Bính ít nhiều - NV). Trò đọc cho thầy nghe, thầy khen nhưng sửa lại vài chỗ, như ở câu “Tiền không là lá em ơi/Tiền là giấy bạc của đời phồn hoa”, Nguyễn Bính sửa lại “Tiền là giấy bạc của đời in ra”, rồi ở câu cuối: “Chợ đời họp một mình tôi. Phiên chiều” được sửa là “Chợ đời họp một mình tôi vui gì!”...

Tình nghĩa thầy trò ở Mộc Kiều Trang chỉ kéo dài mấy tháng, khi Kiên Giang trở về xóm Xẻo Đước (làng Đông Yên) chở lúa gạo cho gia đình cũng là lúc phong trào “Nam kỳ tự trị” của Nguyễn Văn Thinh đang lúc cao trào, họ tuyên truyền “Đả đảo Bắc kỳ” một cách quá khích. Mấy ngày sau, khi Kiên Giang trở lại Rạch Giá thì hay tin Nguyễn Bính bị bắt giam ở bót Giếng Nước gần Trường con trai (Nam học đường), ông có mua xôi và thuốc lá hiệu Mélia tiếp tế cho thầy. Khoảng nửa tháng sau Nguyễn Bính được thả, ông buồn rầu nói với Kiên Giang: “Chắc là anh phải xa em thôi”. Rồi Nguyễn Bính âm thầm vào chiến khu. Ít lâu sau, Kiên Giang nghe nói Nguyễn Bính đang là Chủ tịch Hội Văn nghệ Cứu quốc tỉnh Rạch Giá. Lần gặp cuối cùng giữa hai thầy trò là ở xóm Nước Trong (Khu 9), Kiên Giang đãi thầy một bữa thịt gà, do mình “cải thiện” được!

Năm 1956, Kiên Giang lên Sài Gòn làm “thầy cò” (sửa mo-rát) cho báo Tiếng Chuông, hàng xóm có một “ông cò” thứ thiệt (cảnh sát) hay hoạnh họe. Tức mình, Kiên Giang cũng dán bài thơ của Nguyễn Bính trước cổng: “Từ dạo về đây sống rất nghèo/Bạn bè chỉ có gió trăng theo” và chữa lại: Những thằng bất nghĩa xin đừng đến/Hãy để thềm ta xanh sắc rêu”...

Hà Đình Nguyên

Chia sẻ với bạn bè qua:
Tin liên quan
Những bóng hồng trong đời thơ Nguyễn Bính: “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy

Nhiếp ảnh VN: Thua Pháp "một điểm ngẫu nhiên"

14/09/2006 11:28
Chỉ thua Pháp một điểm,  bộ ảnh mang chủ đề “Đời sống bình dị của người dân Việt Nam” gồm 10 chiếc của 10 tác giả nước ta đã giành giải vàng thay vì giành Cup FIAP. Lý do tại sao? Chúng tôi đã trao đổi với nhà lý luận- phê bình Vũ Đức Tân, CT Hội Nhiếp ảnh Hà Nội, thành viên BGK cuộc thi này.

Hạnh phúc tuổi già - một tác phẩm dự thi của tác giả  Phạm Dực (Đăk Lăk)

Thưa ông, là một nhà lý luận- phê bình kiêm quản lý những vấn đề về Nhiếp ảnh của Việt Nam, đồng thời  là một trong năm vị thành viên BGK cuộc thi Nhiếp ảnh thế giới do FIAP tổ chức, ông có thể cho biết vì sao Việt Nam thua Pháp  trong "cuộc đua" giành chiếc Cup FIAP?

Đây là lần đầu tiên Việt Nam đoạt được huy chương vàng, một danh hiệu không phải là cao nhất trong cuộc thi này, thế nhưng cũng chỉ đứng sau bộ ảnh của Pháp (đoạt Cúp FIAP). Tuy thế, theo cảm nhận và đánh giá chung của Hội đồng xét giải, thì bộ ảnh mang tựa đề “Đời sống bình dị của người dân Việt Nam” gây được ấn tượng mạnh và thu hút sự chú ý đặc biệt trong cuộc thi, với khán giả và BGK- đây mới chính là một thành công đáng trân trọng của chúng ta.

Còn sự chênh lệch nhau một điểm là do chấm ngẫu nhiên. Có nghĩa, với 46 bộ ảnh của 46 quốc gia và vùng lãnh thổ- mỗi bộ mười ảnh của mười tác giả khác nhau- được bày hết trên bàn, đánh số thứ tự từ 1 đến 460. Sau đó Ban tổ chức đưa cho BGK bộ ảnh mười chiếc một theo thứ tự mà không có tên tác giả và không có chú thích ảnh.

Dựa trên số điểm chấm cho từng chiếc một rồi mới sắp xếp lại và cộng điểm tổng cho bộ ảnh của mỗi nước và xét giải cá nhân. Trên cơ sở chấm ngẫu nhiên như thế, bộ ảnh của Pháp đạt 233 điểm (giành Cup FIAP), bộ ảnh Việt Nam đạt 232 điểm (thua Pháp một điểm, giành huy chương Vàng), bộ ảnh Trung Quốc đạt 230 điểm (đoạt huy chương bạc), bộ ảnh của Ý đạt 222 điểm (đoạt huy chương đồng). Ngoài ra còn sáu bằng danh dự nữa.

Suối tiên, tác giả Ngọc Thái  (Hà Nội) - một tác phẩm tạo được sức hút tại cuộc thi.

Ông đánh giá thế nào về bộ ảnh đoạt Cup FIAP của cuộc thi này?

Đây là một bộ ảnh có chủ đề về phong cảnh. Màu gần như tráng. Mặc dù là của mười tác giả khác nhau nhưng chủ đề rất tập trung, thống nhất và đẹp cả về bố cục lẫn tạo hình. Chứng tỏ nước bạn đã chọn lọc rất kỹ.

Ông có nghĩ rằng, đây chính là nguyên nhân giúp các nhà nhiếp ảnh Pháp giành được danh hiệu cao nhất cuộc thi không, thưa ông?

Nhiếp ảnh Việt Nam mạnh về mảng phản ánh đời sống thường nhật. Những tác phẩm gây được chú ý của tác giả Việt Nam với bạn bè thế giới thường là những tác phẩm chụp trực tiếp và ghi nhận những khoảnh khắc.

Tuy vậy, những tác phẩm mang trí tưởng tượng, sáng tạo, ít nhiều có tính triết lý thì vẫn là một hạn chế với các nhà nhiếp ảnh nước ta.

Vậy BGK đã đánh giá chung về bộ ảnh của Việt Nam như thế nào?

Mỗi vị đều có một cảm nhận và đánh giá khác nhau. Song như tôi hiểu thì nói chung về mặt kỹ thuật, bộ ảnh của Việt Nam tương đối đồng đều so với bộ ảnh của các nước bạn.

Còn về nội dung, bộ ảnh của chúng ta gây được chú ý là bởi nó phản ánh chân thực đời sống bình dị nhưng sống động của người dân Việt Nam, trong đó có sự hoà điệu, gắn bó với thiên nhiên.

Quyết đấu, tác giả Ngô Quang Phúc (TP Hồ Chí Minh) - một tác phẩm gây được ấn tượng mạnh với BGK cuộc thi Nhiếp ảnh thế giới.

Như tác phẩm Suối tiên của tác giả Ngọc Thái (Hà Nội), trong giây phút xuất thần đã chớp được khoảnh khắc hất tóc đẹp mắt bên bờ suối của cô gái vùng cao đất Việt. Từ đường nét ngược sáng tới mái tóc đều tạo nên sức hút với BGK…

Hoặc tác phẩm Quyết đấu của Ngô Quang Phúc (Tp Hồ Chí Minh) ghi lại được phút “quyết tử” của hai chú trâu trong lễ Chọi trâu đầu xuân của dân tộc ta cũng gây được ấn tượng mạnh.

Tác phẩm Cấy lúa của tác giả Lại Diễn Đàn (Hà Nội) thì mang lại vẻ thanh nhàn, yên bình mà ẩn chứa sức sống, sự sinh sôi của một đất nước đã từng trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt. Đặc biệt là tác phẩm Lưới cá trên sông của tác giả Võ Thị Cúc đã được đánh giá cao và giành giải bạc cá nhân.

Cảm nhận một cách lạc quan thì  nền nhiếp ảnh nước ta không có sự chênh lệch nhiều so với nền nhiếp ảnh các nước. Vậy để phát triển hơn nữa Hội nhiếp ảnh Việt Nam đã có kế hoạch cụ thể gì trong thời gian tới chưa? thưa ông!

Đương nhiên chúng tôi có rất nhiều kế hoạch. Một trong những kế hoạch để phát triển nhiếp ảnh cho có bề sâu, đó là chúng tôi tập trung xây dựng Trung tâm Nhiếp ảnh. Trong đó sẽ có bảo tàng lưu trữ những thành quả của Nhiếp ảnh qua nhiều thời đại. Tiếp tục phổ cập kiến thức nhiếp ảnh trong toàn quốc. Đẩy mạnh giao thoa quốc tế bằng con đường chính thức và qua sự tiếp xúc của cá nhân mỗi nhà nhiếp ảnh…

Xin cảm ơn ông!

Thục Nhi

Hành phương Nam - bài thơ hay cuối cùng

Nguyễn Bính - Thi sĩ giang hồ - kỳ 7: Rong ruổi đất phương Nam

Thứ tư, 13 Tháng chín 2006, 13:46 GMT+7
Nguyen  Binh Thi si giang ho ky 7 Rong ruoi dat phuong Nam
Nguyen Binh Thi si giang ho ky 7 Rong ruoi dat phuong Nam
Thi sĩ Nguyễn Bính.
Kỳ 6: Nỗi buồn ở xóm Ngự Viên

Sống là sống để mà đi/Chuyến tàu bạn hữu, chiếc xe nhân tình
(Nửa đêm nghe tiếng còi tàu)
Câu thơ "triết lý sống" đó của Nguyễn Bính trong bài thơ viết tặng Hoàng Tấn vào khoảng năm 1941 cho ta thấy rõ tâm trạng chung của ông cũng như của một lớp văn nghệ sĩ lúc bấy giờ.
Bởi vì bắt đầu từ năm 1940 trở đi, thời thế đã có những dấu hiệu cho thấy sẽ có sự thay đổi lớn. Nhưng thay đổi theo hướng nào thì không phải ai cũng nhận ra được. Sự ngột ngạt khó chịu khiến người ta muốn thoát ra khỏi nơi chốn quá quen thuộc của mình. Sinh kế chỉ là một. Phần còn lại là ước muốn tự giải thoát mình khỏi sự bế tắc trong tư tưởng.
Với Nguyễn Bính, ngoài tâm trạng chung đó ra, ông còn là một nhà thơ thèm đi từ trong máu thịt. Ông muốn đi, muốn đến, muốn lang thang khắp đất trời:
Nửa đêm nghe tiếng còi tàu/Ngày mai ta lại bắt đầu ra đi/Sông ngang núi trái quản gì(Nửa đêm nghe tiếng còi tàu)
Vì thế vào tháng 9/1943, Nguyễn Bính cùng Tô Hoài, Vũ Trọng Can rủ nhau làm chuyến "hành phương Nam". Đây là chuyến đi thứ hai của Nguyễn Bính nhưng với Tô Hoài thì là chuyến đầu tiên. Trước đó, vào khoảng năm 1939 Nguyễn Bính đã đến Sài Gòn, lê gót ở Chợ Quán, Đa Kao rồi về Biên Hòa, Mỹ Tho, Vĩnh Long.
Đến Sài thành trong một chuyến tàu chiều ngơ ngác, "nhà văn của những chú dế mèn" đã cảm thấy choáng ngợp khi nhìn cảnh "người ăn uống rào rào như tằm ăn rỗi" ở cái bùng binh trước chợ Bến Thành. Tuy thế ba chàng văn thi sĩ vẫn quyết tâm "kiếm ăn lương thiện". Nhưng cuối cùng phải chia tay nhau, hai chàng văn sĩ xuôi về Bắc, chỉ còn một mình Nguyễn Bính ở lại. Là vì thật ra không có máu giang hồ cũng khó mà lăn lóc nơi xứ người.
Giang hồ còn lại mình tôi/Quê người đắng khói, quê người cay men
Nam Kỳ rồi lại Cao Miên/Tắm trong một cái biển tiền người ta
Biển tiền, ôi biển bao la/Mình không bẩn được vẫn là tay không (Thôn Vân)
Mấy câu thơ này Nguyễn Bính viết tặng Bùi Hạnh Cẩn trong một lần chia tay người bạn thơ đồng thời là người anh em cô cậu nhưng nó cũng nói lên tâm trạng của ông trong nhiều cuộc chia tay với các bạn hữu văn nghệ khác như Tô Hoài, Vũ Trọng Can.
Tuy vậy ở lại Nam Kỳ, Nguyễn Bính cũng không phải đến nỗi là "giang hồ còn lại mình tôi". Ông được nhiều anh em văn nghệ sĩ đón nhận thật chân tình. Lại viết báo, làm thơ để kiếm sống như thời kỳ ở Hà Nội. Sài Gòn từ khá lâu đã dần vươn lên để trở thành một trung tâm văn hóa của phía Nam, không thua kém Hà Nội là mấy. Vì thế nên nhiều văn nghệ sĩ đất Bắc tìm thấy ở đây đất dụng võ. Trước đó Tản Đà, Ngô Tất Tố cũng đã từng bỏ đất Bắc vào Sài Gòn - cái nơi mà Nguyễn Bính nhận xét là Kinh kỳ bụi quá xuân không đến (Xóm dừa) - kiếm sống bằng nghề viết lách.
Nguyễn Bính đến ở với các bạn hữu trong một căn nhà thuê bằng gỗ nhỏ lợp ngói ở khu vực đường Nguyễn Văn Cừ, Q.1, TP.HCM ngày nay. Căn nhà có vườn hoa cùng cây ăn trái bao bọc chung quanh. Nguyễn Bính thích thú đặt tên cho nơi ở này là Lan Chi Viên. Từ khi Nguyễn Bính đến ở, nhiều anh em văn nghệ thường ghé chơi vườn nhỏ Lan Chi để chuyện trò về văn chương, thế sự. Ngoài ra, còn có một số sinh viên học sinh yêu mến Nguyễn Bính, tác giả Lỡ bước sang ngang, cũng thường xuyên lui tới.
Vào thời gian đó, thơ Nguyễn Bính là một thứ thời thượng của báo chí. Nhiều tờ báo muốn có thơ ông để đăng. Có một lần chủ nhiệm tờ Dân Báo thông qua một người đặt Nguyễn Bính viết một bài thơ để đăng vào số đặc biệt. Đó là bài Xóm dừa. Bài thơ không thuộc loại quá đặc sắc như một số bài thơ đã dẫn tuy nhiên nó lại liên quan đến một câu chuyện thú vị, cho ta thấy một phần tính cách của Nguyễn Bính. Hoàng Tấn cho biết, khổ thơ thứ hai của bài thơ này nguyên gốc Nguyễn Bính viết như sau:
Ở mãi kinh kỳ với bút nghiên/Đêm đêm quán trọ thức thi đèn
Làm thơ bán lẻ cho thiên hạ/Thiên hạ đem thơ đọ với tiền
Khổ thơ này, khi đem đến tòa soạn thì ông chủ nhiệm không đồng ý. Là vì hai câu thơ cuối có vẻ ám chỉ. Ông đề nghị sửa hai câu này nhưng Nguyễn Bính nhất định không chịu sửa. Căng thẳng xảy ra. Nhưng bởi tờ báo đã lỡ quảng cáo trong số đặc biệt sẽ có bài thơ của Nguyễn Bính, nên nếu rút bài thơ ra thì không được mà để như thế cũng không ổn. Người môi giới "bán thơ" cho Nguyễn Bính là Tế Xuyên, vốn cũng là anh em văn nghệ chơi thân với nhau, phải đến thuyết phục mãi thì Nguyễn Bính mới chịu sửa lại khổ thơ này.
Ở Lan Chi Viên mãi cũng cảm thấy chán. Căn bệnh thèm đi lại nổi lên. Cũng như thời kỳ ở Hà Nội vào những năm 1936 - 1939, Nguyễn Bính cũng chỉ muốn xem Sài Gòn như là một "đại bản doanh" để từ đó thực hiện những chuyến đi ra các vùng xa như Đông Nam Bộ hoặc Tây Nam Bộ mà thôi. Nguyễn Bính cũng đã làm vài chuyến loanh quanh Sài Gòn rồi. Có lúc đi vài ba ngày, có lúc đi cả tuần mới về lại chỗ trọ. Một hôm Nguyễn Bính nhận được một phong thư từ xứ Hà Tiên gửi đến Lan Chi Viên. Đó là thư của thi sĩ Đông Hồ, mời Nguyễn Bính về miền đất cuối cùng đất nước để thăm chơi. Vài hôm sau, Nguyễn Bính khăn gói lên đường.
Tại Hà Tiên, Nguyễn Bính bắt tay vào sáng tác một trường ca, lấy cảm hứng từ cô cháu gái của Mộng Tuyết. Chẳng rõ thế nào mà nửa đường đứt gánh, Nguyễn Bính vội vã bỏ xứ Hà Tiên, bỏ luôn trường ca đang dang dở, ai cản thế nào cũng không được. Theo nữ sĩ Mộng Tuyết thì trường ca lấy tên một loài cây là Thạch sương bồ, Nguyễn Bính đã viết được đến mấy trăm trang. Có lẽ do nhân vật gợi nên cảm hứng cho ông là cô cháu gái của nữ sĩ Mộng Tuyết đỏng đảnh sao đó khiến ông không còn cảm hứng để viết tiếp. Kể lại chuyện này, nhà thơ Mộng Tuyết vẫn lấy làm tiếc.
Từ giã Hà Tiên, Nguyễn Bính lại quay về Lan Chi Viên để tiếp tục làm thơ viết báo. Và những vần thơ hay lại tiếp tục ra đời để ngày nay còn lại với chúng ta.

(Còn tiếp)
Đình Thu (Thanh Niên)

Hành phương Nam - bài thơ hay cuối cùng

Thứ năm, 14 Tháng chín 2006, 14:24 GMT+7
Hanh  phuong Nam bai tho hay cuoi cung
Hanh phuong Nam bai tho hay cuoi cung

Kỳ 7: Rong ruổi đất phương Nam

Hành phương Nam là bài thơ duy nhất của Nguyễn Bính làm theo thể loại hành. Ta không rõ Nguyễn Bính làm bài thơ này trong trường hợp nào. Có lẽ ông sáng tác bài này trong thời gian ở Lan Chi Viên chăng? Đáng tiếc là người có thể trả lời được câu hỏi này là Hoàng Tấn thì đã mất từ lâu.
Thời kỳ ở Hà Nội, Nguyễn Bính chơi thân với Thâm Tâm và Trần Huyền Trân. Thâm Tâm, nhà thơ bậc thầy về thể loại hành, vào năm 1940 hoặc có thể sớm hơn nữa, có sáng tác một bài hành nổi tiếng là bài Tống biệt hành. Trong cuộc đời sáng tác của Nguyễn Bính, với các văn thi sĩ bạn bè, chỉ có mình Thâm Tâm là người có thể gây ảnh hưởng ít nhiều lên phong cách sáng tác của ông mà thôi.

Theo tài liệu của Hoài Việt thì tiếp theo sau Tống biệt hành, Thâm Tâm có sáng tác thêm một số bài hành nữa cũng rất hay như Can trường hành, Vọng nhân hành vào năm 1944. Có lẽ điều này đã kích thích Nguyễn Bính thử sức với một thể thơ không quen thuộc lắm với ông chăng? Tuy vậy Hành phương Nam lại là một trong những bài thơ hay của Nguyễn Bính. Ta hãy đọc lại khổ thơ đầu của bài thơ này:
Đôi ta lưu lạc phương Nam này
Trải mấy mùa qua, én nhạn bay
Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
Mà ta với người buồn vậy thay
Nỗi niềm cô đơn buồn tủi khi xuân về tết đến vốn là nỗi niềm cố hữu lâu nay của Nguyễn Bính. Ông đã từng thể hiện tình cảm này trong rất nhiều bài thơ khác mà điển hình nhất là bài Xuân tha hương. Ta còn nhớ những câu thế này trong Xuân tha hương:
Chén rượu tha hương! Trời! Đắng lắm!
Trăm hờn nghìn giận suốt mùa đông
Chiều qua ngồi ngắm hoàng hôn xuống
Nhớ chị làm sao nhớ lạ lùng
Lúc viết bài Hành phương Nam này cũng như nhiều bài thơ hoài cố hương khác, chắc hẳn là Nguyễn Bính đang say rượu. Qua nhiều tài liệu khác nhau ta có thể tin điều này. Bản chất con người Nguyễn Bính, do tính nghệ sĩ quá lớn của mình, nên rất yếu mềm và luôn cảm thấy cô đơn. Hoàng Tấn có kể một câu chuyện rất đặc biệt về việc sáng tác thơ của Nguyễn Bính. Một đêm nọ ở Lan Chi Viên, sau cuộc nhậu mọi người đều ngủ say sưa, chỉ còn lại một mình Nguyễn Bính. Quá nửa đêm, khi Hoàng Tấn giật mình thức giấc vẫn thấy Nguyễn Bính ngồi bên bàn. Ông vừa làm thơ và uống rượu một mình, vừa ôm mặt khóc rưng rức. Hóa ra là ông đang hồi tưởng lại quá khứ. Con người Nguyễn Bính là như vậy. Sống với quá khứ là một trong những đặc điểm của ông. Cho nên ta không lạ gì khi Nguyễn Bính viết mấy câu thơ nỗi lòng như thế này trong bài thơ:
Tâm giao mấy kẻ thì phương Bắc
Ly tán vì cơn gió bụi này
Người ơi buồn lắm mà không khóc
Mà vẫn cười qua chén rượu đầy
Hành là một thể thơ cổ, vào thời kỳ này không còn nhiều tác giả sử dụng để sáng tác nữa. Tuy nhiên thể thơ này có thể chuyển tải được những tình cảm bi tráng với giọng thơ đôi lúc rất hào sảng. Nhờ vậy mà Hành phương Nam mới lột tả hết được cái "chất Nguyễn Bính":
Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu
Mà không uống cạn mà không say
Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã
Mà áo khinh cừu không ai may
Nguyễn Bính thuở nhỏ học chữ Nho. Ông đọc nhiều thơ Đường, thông thuộc nhiều điển tích Tàu. Bởi thế một số bài thơ ông sử dụng điển tích Tàu rất nhuần nhuyễn và hay. Chẳng hạn trong bài Hành phương Nam này:
Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén
Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay?
Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự
Giầy cỏ gươm cùn ta đi đây
Về mặt tình cảm, ta thấy tâm tưởng của Nguyễn Bính nhiều lúc như muốn thả trôi về một thời đại xa xưa nào đó. Một thời đại mà ở đó có vua có quan có những cung tần mỹ nữ. Một thời đại mà ở đó có những tráng sĩ dũng cảm lên ngựa tuốt gươm như Kinh Kha, Nhiếp Chính, có những người sẵn sàng giúp đỡ kẻ sĩ như Mạnh Thường Quân. Thế giới đó làm ông ngây ngất. Nếu như Hàn Mặc Tử thả hồn mình vào chốn trăng sao để quên thực tại thì Nguyễn Bính lại tìm về một thời xưa xa nào đó để ẩn dật. Đây cũng là một đặc điểm quan trọng của thơ Nguyễn Bính.
Lúc này có lẽ là vào quãng thời gian 1943 - 1944. Nguyễn Bính đã lăn lóc ở rất nhiều vùng đất khác nhau - "lăn lóc có dư mười mấy tỉnh" như ông nói trong bài thơ Giời mưa ở Huế. Cuộc đời ông đã trở nên dày dạn sương gió rồi. Ông đã là một con người của công chúng, tiếng tăm nổi như cồn nhưng éo le thay cuộc sống cơm áo gạo tiền hằng ngày vẫn làm ông mệt mỏi. Điều mâu thuẫn này thường đến với nhiều người tài như vậy. Cũng vì cơm áo nên nhiều người không thoát ra được vòng luẩn quẩn:
Người giam chí lớn vòng cơm áo
Ta trí thân vào nợ nước mây
Ở chỗ này, ta nhớ lại Nguyễn Vỹ với bài thơ Gửi Trương Tửu. Nguyễn Vỹ đã viết mấy câu thơ nổi tiếng:
Thời thế bây giờ vẫn thấy khó
Nhà văn An Nam khổ như chó
Mỗi lần cầm bút nói văn chương
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương
Và nhìn chúng mình hì hục viết
Suốt mấy năm giời kiết vẫn kiết
Nguyễn Bính không nói bỗ bã như Nguyễn Vỹ nhưng tâm tư của ông thì cũng như vậy. Và rồi cũng như Nguyễn Vỹ, ông lại dùng rượu để quên buồn phiền:
Ta đi nhưng biết về đâu chứ?
Đã đẩy phong yên lộng bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi!
Lại uống rượu! Nếu có người nào chịu khó đi đếm những lần Nguyễn Bính nhắc đến rượu ở trong thơ chắc sẽ gặp được nhiều lắm. Có lẽ cả trăm lần ông dùng từ rượu:
Chị ơi! Tết đến em mua rượu
Em uống cho say đến não lòng
(
Xuân tha hương)
Hôm qua còn sót hơn đồng bạc
Hai đứa bàn nhau uống rượu say
(
Giời mưa ở Huế)
Nhưng mộng mà thôi mộng mất thôi
Hoa tàn rượu ế ấy tình tôi
(
Hoa với rượu)
Nhưng ngồi giữa chợ để "uống say mà gọi thế nhân ơi" cũng thật là thú vị. Tiếc là Nguyễn Bính không chịu kết lại bài thơ ở đây để ông còn ngồi uống rượu mãi giữa chợ mà ông lại viết thêm một khổ nữa:
Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà người cả tiếng cười
Ngươi ơi! Hề! Ngươi ơi!
Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh
Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi…
Có vẻ như ông đã quá say.
(Còn nữa)
Đình Thu (Thanh Niên)
-------------------------------
hd Mời nghe ngâm thơ: