"Phải chi Giàu có một đứa con!"

VietNamNet
-Ngày tháng bên ông là thời gian có ý nghĩa nhất trong đời vì tôi được cha dạy dỗ để làm người và làm khoa học mà không sách vở, trường học nào có thể truyền thụ lại và so sánh được" - con gái nuôi GS Trần Văn Giàu.
Nhiều người biết GS. Trần Văn Giàu không có con, song ít ai biết, ông có một người con gái nuôi là TS. Đinh Thu Xuân. Phút lâm chung của người cha nuôi bà không kịp có mặt, nhưng những ngày sau khi giáo sư ra đi, bà tất bật với bổn phận của một người con đối với tang gia.
TS. Đinh Thu Xuân đã dành cho VietNamNet một cuộc trò chuyện về người cha nuôi "nhân từ, độ lượng, mẫu mực, liêm khiết, giản dị, rất mực yêu thương gia đình và rất hóm hỉnh" của mình.
"Phải chi Giàu có một đứa con!”
Cơ duyên nào để bà trở thành con nuôi của Giáo sư Trần Văn Giàu, điều mà rất ít người, đặc biệt là ngoài giới sử học, biết đến?

- Mùa đông năm 1946, nguyên Bí thư Xứ ủy Nam bộ, kiêm chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa Nam bộ Trần Văn Giàu được Trung ương gọi ra Bắc. Do chưa quen với khí hậu khắc nghiệt của miền Bắc và điều kiện vô cùng thiếu thốn của chiến khu Chi Nê (Hòa Bình), ông đã bị sốt rét ác tính, đi tiểu ra máu. Cha đẻ tôi - một cán bộ người Mường đã chăm sóc và chữa bệnh cho ông bằng phương thuốc gia truyền của người Mường. Từ đó hai ông trở thành bạn thân thiết...
Di sản mà GS. Trần Văn Giàu để lại cho cô con gái nuôi chính là lời căn dặn “Hãy tham gia và góp sức mình vào hết thảy những việc gì đem lại ích nước lợi nhà!”.
Năm 1994, cha đẻ tôi lâm trọng bệnh, giáo sư đã gọi tôi đến nhà (lúc đó ông đang ở số 70 Phạm Ngọc Thạch, Q.3, TP. HCM), lấy ra một cặp nhân sâm Triều Tiên rồi nói: “Đây là quà của Chủ tịch Kim Nhật Thành tặng”. Ông sẻ một cây và nói tôi phải về quê ngay để kịp cho cha đẻ tôi bồi bổ sức khỏe. Nhận được quà, cha đẻ tôi rơm rớm nước mắt, dặn: “Từ giờ trở đi, con phải coi ông bà giáo sư như cha mẹ của mình và phải chăm sóc ông bà chu đáo, vì ông bà có hai người con đều mất từ khi còn nhỏ. Hồi ở chiến khu cha rất xót xa khi nghe ông nói: "Phải chi Giàu có một đứa con!”.
Cha tôi qua đời, giáo sư rất đau buồn. Ông nghẹn lời khi tôi nói lại lời căn dặn của cha tôi. Từ năm 1997, sức khỏe của ông bà ngày càng yếu, nhất là khi bà ngã bị gãy chân. Tôi chỉ biết chăm sóc ông bà bằng tấm lòng thành của một người con, cùng những bài thuốc gia truyền của gia đình. Rồi bà ra đi vào đầu năm 2005, khiến ông càng hẫng hụt. Có một việc tôi hoàn toàn không dám nghĩ đến là ông gọi tôi đến và nói rất ngắn: “Thầy ủy quyền cho con biên tập và xuất bản toàn bộ tác phẩm của thầy”.
Đó là năm tôi bắt tay vào biên tập cuốn Tổng tập Trần Văn Giàu, tập 1, có dung lượng 1.780 trang. Năm 2006, sách được xuất bản, ông lấy một cuốn đề tặng tôi Tặng con gái và học trò tin cẩn, rồi ký chữ Giàu dung dị ở dưới. Đối với tôi, đây không chỉ là phần thưởng mà còn là vinh dự lớn rất lớn vì cả cuộc đời làm cách mạng, làm nhà tư tưởng, nhà khoa học và nhà giáo của mình, ông không hề có trợ lý và thư ký. Ông tự làm lấy mọi việc. Nay do sức khỏe suy giảm, ông đã chọn tôi làm con và học trò tin cẩn trong hằng hà nhiều thế hệ học trò của mình. Là người luôn nói ít lời, nhưng nhiều nghĩa, nên những chuyện riêng của gia đình hay của cá nhân, cha tôi ít khi bộc bạch. Có lẽ đó là bài học làm người đầu tiên mà cha dạy tôi.

Vậy tình cảm của ông đối với cô con gái nuôi như thế nào khi giáo sư là người không có con, thưa bà?

- Cha luôn tin tưởng, bao dung và yêu thương tôi như con đẻ. Đó là hồng phúc mà cha đã ban tặng cho tôi. Vào những ngày lễ, nhất là sinh nhật của cha tôi, ông luôn muốn tôi xuất hiện trong bộ quân phục, giơ tay chào ông theo đúng tác phong của một nữ sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong suốt một năm nằm điều trị ở bệnh viện Thống Nhất, mỗi khi đến thăm cha, tôi luôn chào cha như vậy và không quên hôn đều trên hai má ông.
Đó là những khoảnh khắc cha con đều cảm thấy ấm áp và rất hạnh phúc. Những khi bệnh trở nặng, cha kiên cường chịu đựng, không để lộ nỗi đau ra bằng cách nắm chặt tay tôi. Mỗi lần như vậy, tôi áp tay cha vào má và hôn lên bàn tay gầy guộc, mờ hết vân tay vì cả một đời cầm viết cho đến khi không thể cầm viết được nữa.
Người làm sử phải dũng cảm viết đúng sự thật

Đóng góp của Giáo sư Trần Văn Giàu đối với nền khoa học lịch sử nước nhà, đã được khẳng định, còn di sản mà một người cha đã để lại cho bà - con gái nuôi, theo bà, đó là những gì?
- Di sản mà cha để lại cho tôi rất đồ sộ: Cách học để làm người và làm sử, với lời răn dạy “Hãy tham gia và góp sức mình vào hết thảy những việc gì đem lại ích nước lợi nhà!”. Về lương tâm nghề nghiệp, cha tôi luôn nhắc nhở: “Hãy viết sử như chính nó vốn có, chứ không được luận sử và người làm sử nhất thiết phải có tâm và lòng dũng cảm để nói và viết đúng sự thật”.
TS. Đinh Thu Xuân con gái nuôi của TS Trần Văn Giàu
Công trình nào của ông mà bà khâm phục, tâm đắc? Bà đã rút tỉa, học tập, đúc kết được những gì từ kiến thức, tác phẩm và tinh thần của ông?

- Tôi tâm đắc nhất là những công trình ông viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh và lịch sử tư tưởng, vì những thể loại sách đó rất khó viết, nhất là viết hay để ai cũng có thể đọc, hiểu và say mê được. Ý nghĩa và tác động của những loại sách đó luôn đem đến sự đổi thay và tiến bộ lớn trong xã hội. Ngoài ra, với tư cách một người con, tôi tâm đắc với cuốn hồi ký cha tôi viết như món quà tặng cho má tôi - bà Đỗ Thị Đạo - người bạn đời thủy chung mà ông rất mực yêu thương.
Dẫu rằng cuốn hối ký cha viết chỉ có 5 năm (1940 - 1945), với lời tựa Những năm tháng có ích nhất trong đời tôi, nhưng đã giúp tôi hiểu được phần nào sự hy sinh vô tư, không đắn đo trên mọi phương diện của cha và má tôi trong những tháng năm khó khăn nhất của cách mạng Việt Nam đang trong “thời kỳ trứng nước” như sử sách vẫn ghi.
Một công trình nữa khiến tôi vô cùng khâm phục là cuốn Giai cấp công nhân Việt Nam, do NXB Sự Thật (nay là nhà xuất bản Chính trị quốc gia) xuất bản lần đầu năm 1958, với lời giới thiệu viết bằng tay của người thợ nổi tiếng Tôn Đức Thắng - người kéo cờ đỏ trên chiến hạm Pháp để ủng hộ cách mạng Tháng Mười Nga, cũng là người sáng lập ra tổ chức Công hội Đỏ, tiền thân của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam ngày nay. Má tôi kể rằng cha tôi đã viết cuốn sách này trên ổ rơm của người nông dân Sơn Tây, trong cái rét căm căm của đất Bắc.
Ngày tháng bên cha là thời gian ý nghĩa nhất trong đời
Những ấn tượng đáng nhớ về một nhà khoa học, trí thức lớn, một người cha tinh thần, trong bà?

- Đó là người cha nhân từ, độ lượng, mẫu mực, liêm khiết, giản dị, rất mực yêu thương gia đình và rất hóm hỉnh. Là nhà cách mạng, suốt đời ông đã chiến đấu kiên cường, cống hiến tuổi xuân, trí tuệ, hạnh phúc và ngay chính bản thân mình cho dân, cho nước. Là nhà khoa học, ông đã vắt kiệt sức mình cho ngàn vạn trang viết luôn lấp lánh sự khám phá những cái mới. Là nhà giáo, suốt đời ông trăn trở với nghiệp dạy chữ và dạy làm người, theo tiêu chí “Học cả đời. Học ở dân. Học ở sách vở và cuộc sống. Học để làm người, với chữ người viết hoa”.

Thật vinh dự, tự hào, hạnh phúc khi tôi được làm con gái và học trò tin cẩn của cha. Những ngày tháng bên ông là những tháng năm có ý nghĩa nhất trong đời vì tôi được cha dạy dỗ để làm người và làm khoa học mà không sách vở, trường học nào có thể truyền thụ lại và so sánh được. Nhưng nỗi buồn lớn nhất của tôi là không thể chia sớt sức khỏe của mình cho cha. Đó còn là sự bất lực trước bệnh tình của cha và chưa đem lại cho cha nhiều niềm vui như mong muốn. Nỗi ân hận lớn nhất đời tôi là không kịp có mặt bên cha trong phút ông lâm chung.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu nhận định chưa có ai thay thế được Giáo sư Trần Văn Giàu. Bà cùng thế hệ của mình, thậm chí là thế hệ sau nữa, làm gì để tiếp nối và để xứng đáng với tiền bối?

- Tôi đồng ý với nhận định của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu vì không mấy ai cùng lúc có thể làm được như cha tôi: nhà cách mạng tiêu biểu, nhà tư tưởng hàng đầu, nhà khoa học lớn, nhà giáo có nhiều học trò thành đạt trên nhiều lĩnh vực.
Để xứng đáng với cha, tôi chỉ biết tâm niệm và nỗ lực làm theo lời cha dạy: “Học suốt đời. Học để làm người và gắng sức tham gia, góp phần vào tất cả những gì đem lại ích nước, lợi nhà”. Một việc nữa mà suốt đời tôi muốn làm là quảng bá rộng rãi những tác phẩm của cha tôi tới mọi người quý mến ông như là di sản, gia tài quý báu mà ông để lại cho nước, cho dân.
Võ Tiến thực hiện

thanhnien.com.vn:
19/12/2010 0:38
Giáo sư Trần Văn Giàu - Ảnh: D.Đ.Minh
Như Báo Thanh Niên đã đưa tin, GS Trần Văn Giàu vừa vĩnh biệt chúng ta, vượt qua ngưỡng cửa tuổi 100 và để lại hơn 150 công trình nghiên cứu về triết học, tư tưởng, lịch sử và văn học...
Trước ngày GS Trần Văn Giàu đi xa, một số nhà nghiên cứu đã sơ bộ tổng kết các tác phẩm của ông và nêu lên 3 công trình triết học đáng chú ý là: Biện chứng pháp (1955), Vũ trụ quan (1956), Duy vật lịch sử (1957) và 2 công trình về lịch sử tư tưởng quan trọng: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ 19 đến Cách mạng tháng Tám (1993, dày hơn 1.000 trang), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam (1993). Ông chủ biên bộ Lịch sử cận đại Việt Nam (1963) và đồng chủ biên (với nhiều tác giả) bộ Địa chí văn hóa TP.HCM (1998)... Theo PGS Trần Hữu Tá “thành tựu của ông trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử đa dạng và phong phú hơn cả; trong hoạt động nghiên cứu văn học, ông đã khảo sát toàn bộ nền văn học dân tộc, từ văn học dân gian đến văn học hiện đại. Ông không dựng những bức tranh toàn cảnh, hệ thống của văn học lịch sử Việt Nam mà đi sâu, đột phá vào một số trọng điểm như thần thoại, truyền thuyết”.

Tồn tại hiện nay của Giải thưởng khoa học Trần Văn Giàu chính là sự hiện hữu bất biến của tâm nguyện mà giáo sư để lại và như ông Tô Bửu Giám kết luận: “Đó là tâm huyết đến cuối đời vẫn lo việc đào tạo con người, phát hiện các viên ngọc quý trong cuộc sống của người Nam Bộ, góp phần làm giàu thêm vốn tri thức, văn hóa Việt Nam”.

Các nghiên cứu về ông chắc chắn sẽ còn tiếp tục. Phần chúng tôi, nhớ lại cách đây đã lâu, trong một dịp đến nhà chúc mừng sinh nhật giáo sư, đã nghe ông phát biểu về mình như sau: “Tôi nói ngay rằng tôi không phải là một nhà văn, cũng không phải là nhà nghiên cứu văn học. Tôi là một thầy giáo về sử, mong muốn tìm hiểu lịch sử tư tưởng Việt Nam mà văn học là kho chứa đựng nhiều tư liệu có liên quan. Vì vậy khi nghiên cứu văn học, tôi chú ý đến vấn đề tư tưởng hơn là những vấn đề khác.
Những bài viết đăng báo trong mấy chục năm được tôi chọn đưa vào tập Trong dòng chủ lưu của văn học Việt Nam: tư tưởng yêu nước. Tôi đề cập đến tư tưởng chủ yếu của người Việt thời cổ qua những chuyện đứng đầu trong thần thoại và truyền thống; cuộc đấu tranh giữa thần bí và duy lý trong Phật giáo Giao Châu thế kỷ V; mấy đặc điểm trong nội dung tư tưởng của thơ văn đời Lý: Lý Thường Kiệt với Lộ bố đánh Tống và Nam quốc sơn hà; Trần Quốc Tuấn với Hịch tướng sĩ; về Nguyễn Trãi, người đứng đầu một văn phái yêu nước, thương dân, có tư tưởng cao cả; về Nguyễn Đình Chiểu với Đạo làm người; về Phan Bội Châu: chính khách, nhà văn, nhà tư tưởng; về chữ quốc ngữ La-tinh: từ vũ khí xâm lược của thực dân trở thành vũ khí đấu tranh giải phóng dân tộc; về chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa cộng sản…”.
Những khẳng định ấy đăng trên Báo Thanh Niên trước đây, được giáo sư đọc và xác nhận. Nay tuy vĩnh biệt chúng ta, song sự nghiệp của giáo sư vẫn còn đó, xúc động và hiển nhiên như tồn tại của Giải thưởng khoa học Trần Văn Giàu do giáo sư sáng lập và hiến tặng 1.000 lượng vàng lấy từ tiền bán nhà của mình để làm quỹ ban đầu cho giải thưởng.
Giải được trao theo tâm nguyện của giáo sư cho 2 lĩnh vực mà cả đời giáo sư đã nghiên cứu và giảng dạy, đó là lịch sử và lịch sử tư tưởng. Theo ông Tô Bửu Giám, hiện là Chủ tịch Ủy ban Giải thưởng Trần Văn Giàu, thì điều giáo sư mong mỏi là các thế hệ tiếp nối sự nghiệp của giáo sư, nhất là những nhà khoa học trẻ, sẽ tiếp tục đi sâu nghiên cứu và sáng tạo trên hai lĩnh vực này trên vùng đất phía nam của Tổ quốc (Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ - B2 thời kháng chiến).
Mỗi năm có hai giải, giá trị như nhau: một cho lĩnh vực sử học, một cho lĩnh vực tư tưởng; yêu cầu của mỗi lĩnh vực là những phát hiện có tính sáng tạo, những gì mới, có nghĩa là những vấn đề chưa được nghiên cứu hay đã nghiên cứu nhưng chưa sâu, chưa có luận cứ khoa học giải thích vững chắc, chưa in thành sách hoặc đã in thành sách thì không quá hai năm kể từ ngày in và phát hành. Ủy ban giải thưởng nêu rõ: “Cái MỚI hoàn toàn không có nghĩa xuất phát từ số không mà có sự tiếp nối kế thừa nhưng có điểm khám phá mới – ví như cuốn Óc Eo, vấn đề đã đặt ra do bác sĩ Gore từ 1879 và L.Malleret (1937-1941), Óc Eo được khai quật đầu tiên năm 1943. Đề tài nghiên cứu đa dạng, phong phú, không cứ chỉ là đề tài bác học mà còn cả về những vấn đề ta đã tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày, nhưng chưa đi sâu lý giải như tên một tỉnh, một vùng đất, một nhân vật, một tập quán, một đạo giáo, một phong tục riêng của vùng đất B2. Người tham gia bất kể là sống ở vùng miền nào, người Việt tại nước ngoài đều có thể dự giải”.

Quỹ ban đầu do giáo sư đưa ra là 1.000 lượng vàng SJC vẫn còn nguyên vẹn, được bổ sung thêm 800 triệu đồng do có các năm không phát giải thưởng nên nhập vào theo quy định của điều lệ. Sổ sách và chứng từ chi xuất đều minh bạch rõ ràng. Tài chính thu chi hằng năm của quỹ này làm đúng theo luật pháp. (Ủy ban Giải thưởng Trần Văn Giàu)

Ngoài những điểm nêu trên, cũng theo ông Tô Bửu Giám, điều quan trọng theo nguyện vọng của giáo sư là phát hiện, nghiên cứu, lý giải những gì MỚI để làm giàu cho đời sống văn hóa xã hội của một vùng đất mới chỉ khoảng 500 năm (nếu kể từ ngày Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam chính thức đưa vùng đất này vào cương vị lãnh thổ Việt Nam thì chỉ hơn 300 năm), một thời gian rất ngắn so với lịch sử trên 4.000 năm của Tổ quốc chúng ta:
“Cái MỚI như trên đã nói là cái khó nhất. Tâm tư, nguyện vọng của giáo sư, người suốt đời nghiên cứu, viết sách, dạy sử Việt Nam, là muốn trong giáo trình giảng dạy, nghiên cứu có thêm những tài liệu, sử liệu tiêu biểu cũng như lịch sử khai phá, xây dựng của vùng đất này để không chỉ cho nhân dân miền Nam mà cả nước cùng biết, cùng thêm yêu quý Tổ quốc hùng vĩ, giang sơn gấm vóc Việt Nam, để cùng chung sức bảo vệ, xây dựng cả trong hiện tại và ngàn đời về sau”. Tuy có quy định mỗi năm phát giải một lần, nhưng trong 8 năm qua, kể từ khi giải thưởng bắt đầu hoạt động vào tháng 7.2002, mặc dù rất cố gắng, chỉ mới trao được 5 giải, chưa đáp ứng được kỳ vọng của người sáng lập ra giải. Vì thế Ủy ban giải thưởng nhận thấy chỉ có một giải cho mỗi lĩnh vực lịch sử và lịch sử tư tưởng mà không có giải 2, giải 3 và giải khuyến khích là thiếu hấp dẫn cho người nghiên cứu muốn dự giải vì rất khó mà đạt giải (dù giá trị mỗi giải khá cao - khoảng 100.000.000đ đến 250.000.000đ/mỗi giải). Ủy ban giải thưởng cũng có nhiều lần đề nghị với giáo sư thêm giải 2, 3, giải khuyến khích và chia tiền thưởng của một giải này làm 2, 3 giải, nhưng giáo sư đều không đồng ý vì cho rằng 1 giải với giá trị giải thưởng cao để động viên người nghiên cứu tìm hiểu và phát hiện ra vấn đề mới. Trước ngày GS Trần Văn Giàu qua đời khoảng một năm, Ủy ban giải thưởng đã gợi ý các đề tài dưới đây:
1. Về lịch sử vùng đất, con người thì Nam Bộ rất phong phú. Chỉ riêng quá trình hình thành vùng đất Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ... đã có nhiều điểm cần nghiên cứu. Lịch sử hình thành thôn xóm Nam Bộ, lịch sử đấu tranh với thiên nhiên trong khai hoang lập đất, đấu tranh để bảo vệ vùng đất trong mối quan hệ giữa các nước láng giềng, trong nội bộ miền đất mới này... cũng đặt ra nhiều vấn đề cần đi sâu, giải thích cặn kẽ để hiểu đúng. Về các nhân vật lịch sử gắn với vùng đất B2 cũ rất nhiều và mỗi nhân vật đều có những nét riêng rất tiêu biểu.
2. Về lịch sử tư tưởng thì các lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, đặc biệt chỉ có riêng trong Nam như đạo Cao Đài, Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, các đạo như: đạo thờ cúng ông bà, đạo Dừa, đạo Ông Trần, lịch sử, ý nghĩa các lễ thờ cúng Ông Bổn, bà Thiên Hậu, các lễ Nghinh Ông, thờ Nam Hải Ngạc Thần cùng các tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào Chăm, gốc Khmer, gốc Hoa như đạo Bà La Môn, Ấn giáo, Phật giáo Đại thừa, Tiểu thừa... rất cần được đi sâu tìm hiểu. Về đạo đức ảnh hưởng của Lão giáo, Khổng giáo biến dạng ở Nam Bộ như thế nào? Các phong tục tập quán, các lễ hội ở B2 rất đa dạng: các Tết Nguyên tiêu, Tết Dolta, Tết Chol Xờ Nam Thmây, Tết Rơ mư wan (của dân tộc Chăm), ngày hội Diên Trì, lễ Vu lan, lễ hội Bà Chúa Xứ (An Giang), núi Bà Đen (Tây Ninh)... đều rất đông người đến dự, các dân tộc đều coi như ngày hội của mình... Tất cả đều cần nghiên cứu kỹ nguồn gốc truy tầm lịch sử tư tưởng, ý nghĩa tâm linh của nó.
Giao Hưởng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét